Giai đoạn ôn thi ‘nước rút’, ở môn Ngữ văn, giáo viên không chỉ cứ cho học sinh luyện đề mà cần chú trọng hướng dẫn các em ôn tập theo cấu trúc đề thi.
Cấu trúc đề thi môn Ngữ văn gồm hai phần: Phần đọc hiểu và phần làm văn.
Với phần làm văn, trong quá trình ôn tập, giáo viên cần bám sát vào đề thi minh hoạ của các năm để chỉ ra các dạng đề thường gặp. Từ đó, giáo viên hướng dẫn, cung cấp kĩ năng giải quyết các dạng đề đó.
Cụ thể, trong phần lí thuyết, cần cung cấp cụ thể cho các em “cách làm”, các bước và dàn bài khái quát. Sau phần lí thuyết của mỗi dạng đề, giáo viên chỉ cần cho học sinh thực hành luyện một đến 2 đề (có chấm và chữa một cách cẩn trọng).
Qua tìm hiểu, phân tích các đề thi minh hoạ cũng như đề thi chính thức trong những năm gần đây, tôi nhận thấy có các dạng đề nghị luận văn học thường gặp như sau:
1. Nghị luận (phân tích hoặc cảm nhận) về 1 đoạn thơ. Từ đó, nhận xét (hoặc liên hệ) rút ra giá trị/ đặc điểm… về nội dung/ nghệ thuật/ tình cảm của tác giả…
2. Nghị luận (phân tích hoặc cảm nhận) về một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi (truyện, kí, kịch). Từ đó, nhận xét (hoặc liên hệ) rút ra giá trị/ đặc điểm…. nội dung/ nghệ thuật/ tình cảm của tác giả…
Ví dụ: Đề thi tham khảo tốt nghiệp phổ thông năm 2022, yêu cầu “…phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích trên; từ đó, nhận xét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Kim Lân trong đoạn trích”.
Đề thi tốt nghiệp phổ thông năm 2022, yêu cầu là “…phân tích đoạn trích trên; từ đó, liên hệ hình ảnh chiếc thuyền trong đoạn trích với chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá được miêu tả trong truyện để rút ra thông điệp về mối quan hệ giữa cuộc sống và nghệ thuật”.
Đề thi tốt nghiệp phổ thông năm 2023, từ lệnh là “…hãy phân tích đoạn trích trên; từ đó nhận xét cách nhìn cuộc sống của nhà văn Kim Lân được thể hiện trong đoạn trích”. Hay đề thi tham khảo năm 2024 là “…phân tích đoạn trích trên; từ đó, nhận xét tình cảm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đối với sông Hương được thể hiện trong đoạn trích”.
Ngoài hai dạng thường gặp trên, còn có ba dạng không phổ biến là: Nghị luận (phân tích hoặc cảm nhận) về một nhân vật trong tác phẩm truyện; Nghị luận liên quan đến một tình huống truyện, kí, kịch; Đối chiếu, so sánh hai nhân vật, 2 chi tiết, 2 tư tưởng, 2 đoạn thơ…
Tôi xin được hướng dẫn cụ thể “cách làm” hai dạng đề thường gặp trên. Trước hết là cách làm bài “Nghị luận (phân tích hoặc cảm nhận) về 1 đoạn thơ. Từ đó, rút ra giá trị/ đặc điểm… về nội dung/ nghệ thuật….”. Với dạng đề này, ngoài việc phải nắm vững các đặc trưng của thể loại thơ, thí sinh cần phải nắm chắc các bước làm bài như sau:
Bước 1: Nhận xét khái quát đoạn thơ, gồm các mặt như thể thơ, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu nói chung. Đặc biệt là bố cục gồm bao nhiêu ý chính và định hướng cách phân tích theo bố cục như thế nào (cắt ngang, bổ dọc, hay kết hợp cả hai).
Bước 2: Lần lượt phân tích theo định hướng bố cục trên. Thao tác này gồm các bước: Lời dẫn hay chuyển ý, trích ngữ liệu thơ. Phải trích dẫn đầy đủ, chính xác.
Bước 3: Diễn toàn bộ phần trích dẫn thơ ra văn xuôi (tóm tắt nội dung, ý nghĩa). Phải diễn trôi chảy, đúng ý nghĩa, hay. Hầu hết bài làm của học sinh đều có thao tác này. Đáng nói là nhiều thí sinh chỉ dừng lại ở thao tác này nên bài làm chưa có chiều sâu và thường bị giám khảo nhận xét là “chỉ mới diễn xuôi”.
Bước 4: Bám vào những từ ngữ, hình ảnh trọng tâm, các biện pháp nghệ thuật… để phân tích sâu, kỹ. Đây là bước cơ bản nhất, nó thể hiện khả năng cảm thụ về thơ ca của người viết. Muốn bài làm có chiều sâu phải phát huy hiệu quả của bước này.
Bước 5: So sánh, đối chiếu để làm nổi bật đoạn thơ. Có nhiều cách liên hệ, so sánh, như về các hình ảnh, chi tiết, nghệ thuật trong bài thơ, ngoài bài thơ; so sánh với cùng một tác giả, khác tác giả; hoặc những tác phẩm cùng viết về đề tài…
Với dạng đề này, giáo viên có thể hướng dẫn cho các em làm theo dàn bài khái quát sau:
1. Mở bài:
– Giới thiệu: Tác giả (vị trí, phong cách, nên trích 1 ý kiến đánh giá về tác giả), bài thơ đề cho (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác), bố cục của bài thơ và vị trí của đoạn thơ trong đề thi.
– Chép thơ: Có thể chép hết đoạn hoặc chỉ chép câu đầu và câu cuối, nếu dài.
– Chuyển ý: Phân tích đoạn thơ trên, cho ta thấy được nội dung tư tưởng sâu sắc (…) và bút pháp nghệ thuật độc đáo (…) của tác giả.
2. Thân bài:
a. Nhận xét khái quát đoạn thơ: Về thể thơ; về ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu; về cấu tứ; về bố cục gồm bao nhiêu câu thơ, có thể phân tích cắt ngang (hoặc bổ dọc, nếu có ý) thành bao nhiêu ý chính.
b. Lần lượt phân tích theo bố cục cắt ngang:
Vận dụng 5 bước phân tích thơ trên vào đây. Ở bước 5 có thao tác đưa dẫn chứng liên hệ.
Dưới đây là cách đưa dẫn chứng liên hệ hiệu quả: Từ luận điểm đang nghị luận, liên hệ với dẫn chứng tương ứng (dẫn chứng có thể tương đồng hoặc khác biệt); Tái hiện lại dẫn chứng (có kèm phân tích/ diễn giải/ bàn luận); Chốt ý, bám sát dẫn chứng với luận điểm (chú ý dẫn chứng có liên hệ gì với luận điểm đang phân tích? làm sáng tỏ hơn cho luận điểm điều gì?).
c. Tổng hợp và nhận xét, đánh giá:
* Qua việc phân tích đoạn thơ trên, ta thấy:
– Về nội dung: Nêu lại nội dung/ chủ đề của đoạn thơ; đoạn thơ bộc lộ vẻ đẹp gì; có ý nghĩa, tư tưởng xã hội/ văn học/ lịch sử như thế nào; đóng góp điều gì mới mẻ cho văn học về đề tài/ chủ đề…?
– Về nghệ thuật: Nêu lại toàn bộ phép nghệ thuật đã phân tích từ đoạn thơ (các phép tu từ, thể thơ, hình ảnh, giọng điệu, ngôn ngữ…); bút pháp gì được sử dụng qua đoạn thơ (như trữ tình/ chính luận/ lãng mạn/ bi tráng/ tài hoa…); đoạn thơ thể hiện phong cách gì của tác giả; đem đến điều gì mới mẻ trong bút pháp sáng tác của tác giả cho văn học nước nhà…
3. Kết bài:
Tóm lại, đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp (nêu lại chủ đề/nội dung đoạn thơ); khẳng định ý nghĩa/ sức hấp dẫn của đoạn thơ trong bài thơ; khẳng định sức sống của bài thơ, của tác giả. Nên có một ý kiến đánh giá về tác phẩm ở kết bài.
Tiếp theo, tôi xin hướng dẫn là cách làm dạng đề “Nghị luận (phân tích hoặc cảm nhận) về một đoạn trích trong tác phẩm văn xuôi (truyện, kí, kịch). Từ đó, nhận xét (hoặc liên hệ) rút ra giá trị/ đặc điểm…. nội dung/ nghệ thuật/ tình cảm của tác giả….”
Dạng đề này thường có yêu cầu: Phân tích đoạn trích (đề có trích dẫn văn bản hoặc không trích), từ đó nhận xét/ đánh giá/ rút ra kết luận/ làm rõ… giá trị nhân đạo/ hiện thực/ phong cách nghệ thuật/ ý nghĩa thông điệp… của tác giả/ văn bản. Với dạng đề này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh làm theo dàn bài khái quát sau:
1. Mở bài:
– Giới thiệu: Tác giả (vị trí, sự nghiệp, phong cách, quan điểm sáng tác). Nên có một nhận định về tác giả; tác phẩm (xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác); vị trí đoạn trích đề cho (nằm ở phần nào trong tác phẩm), nội dung của đoạn trích.
– Chép lược đoạn trích: Chỉ chép câu đầu và câu cuối hoặc cụm từ đầu và cụm từ cuối.
– Chuyển ý: Phân tích đoạn trích trên cho ta thấy được (theo yêu cầu đề).
2. Thân bài:
a. Phân tích đoạn trích:
– Khái quát về đoạn trích: Tóm lược sự kiện/ sự việc trước đoạn trích đề cho. Có thể tóm tắt ngắn gọn tác phẩm để người đọc thấy được vị trí đoạn đề cho trong tác phẩm; Đoạn trích nói về điều gì? Nội dung tư tưởng/ chủ đề gì?
– Phân tích đoạn trích: (trọng tâm) Phân tích/ diễn giải kỹ, sâu, chính xác các tình tiết của đoạn trích theo trình tự từ đầu đến hết. Nếu là kịch thì phân tích các lời đối thoại. Phân tích đến đâu đánh giá nội dung và nghệ thuật đến đó. Đưa thêm dẫn chứng liên hệ để so sánh.
– Tổng hợp, đánh giá đoạn trích về nội dung tư tưởng và bút pháp nghệ thuật.
b. Làm rõ yêu cầu “Từ đó…”: Phần này yêu cầu thí sinh phải nắm vững kiến thức về giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực, ý nghĩa thông điệp của tác phẩm và phong cách nghệ thuật, của tác giả.
3. Kết bài:
– Tóm lược vấn đề chính đã nghị luận.
– Khẳng định ý nghĩa/ sức hấp dẫn của đoạn trích; Khẳng định sức sống của tác phẩm, tác giả. Nên có một nhận định về tác phẩm.
Để có thể đạt điểm cao nhất ở phần này, như đã nhấn mạnh ở trên, sau khi nắm vững phần lí thuyết, học sinh cần chủ động thực hành bằng cách làm một số đề thi (phần viết câu nghị luận văn học). Ngoài ra, kiến thức cơ bản của từng tác phẩm các em cũng cần phải nắm vững vì “có bột mới gột nên hồ”.
Nguồn: Giáo dục & Thời đại